- Được biết Bộ Tài chính vừa có Văn bản số 18487 BTC-TCDN trình Phó Thủ tướng Thường trực về cơ chế hoạt động đối với Cty mua bán nợ và tài sản tồn đọng DN. Theo ông nếu được chấp thuận nó sẽ tác động như thế nào đến hoạt động mua bán nợ trong thời gian tới ?
Thực ra những vấn đề khó khăn vướng mắc đối với hoạt động mua bán nợ và tài sản DN đã được chúng tôi có ý kiến từ cách đây hơn hai năm. Vì chưa được giải quyết và chưa có hành lang pháp lý cụ thể cho hoạt động này nên trong giai đoạn vừa qua chúng tôi cũng chỉ dám làm cầm chừng. Nếu làm mạnh thì sợ bị “thổi còi”. Chính vì vậy, trước mắt chúng tôi chủ yếu tập trung vào giải quyết thu hồi các khoản nợ đã mua.
- Theo ông đâu là vướng mắc, cản trở lớn nhất hiện nay ?
Khó khăn lớn nhất hiện nay chính là việc xác định giá trị DN. Hiện chúng tôi còn hơn 20 DN chưa xác định được giá trị DN vì vướng đất . Khi xác định giá trị DN để thực hiện chuyển đổi sở hữu DN nhà nước thì phần lớn đối với các DN khách nợ tại các thành phố lớn, giá trị đất đai thường chiếm tỷ trọng cao. Nếu tính giá đất theo thị trường thì không thể làm được. Khi không xác định được giá trị thì rất khó để xây dựng phương án chuyển đổi.
Thứ ba là cho vay bảo lãnh. Quy định hiện hành không cho phép Cty mua bán nợ cho vay bảo lãnh. Trong khi đó phần lớn các nhà máy, DN mà chúng tôi mua hoặc định mua đều trong tình trạng hấp hối hoặc đã mất khả năng hoạt động. Nếu không rót tiền và xắp xếp lại thì nhà máy không thể hoạt động và cũng không thể tái cấu trúc bởi họ không thể đi vay ngân hàng được nữa thì mới tìm đến chúng tôi.
Thứ tư là quy trình hướng dẫn thủ tục thoả thuận hiện rất chung chung nên thường kéo dài. Bộ Tài chưa hướng dẫn cụ thể tránh tình trạng mỗi nơi hiểu một kiểu. Ví dụ khi chúng tôi mua nhà máy đường Sơn La, theo trình tự thì chúng tôi phải làm thủ tục mất 2 năm mới giải quyết song. Nhằm duy trì nhà máy vận hành và tạo điều kiện cho người lao động, một mặt chúng tôi thỏa thuận với đối tác là sẽ mua nhà máy và triển khai cơ cấu lại hoạt động, một mặt tiếp tục tiến hành các thủ tục cần thiết. Tuy nhiên khi gần tiến hành thủ tục xong thì cũng là lúc nhà máy bắt đầu vận hành có hiệu quả. Lúc đó lại có ý kiến nhà máy đang hoạt động có hiệu quả rồi thì cần gì phải bán. Đấy là cái khó...
Chính vì những vướng mắc trên mà chúng tôi bị kẹt trong thế khó mua, khó bán.
- Vậy trên thực tế hoạt động của DATC thời gian vừa qua như thế nào, thưa ông ?
Năm 2009, Cty chỉ thực hiện mua nợ 193 tỷ đồng, vì chưa có cơ chế nên nếu triển khai mua nhiều mà không thu hồi được vốn thì sẽ bị khiển trách. Tổng nợ từ trước đến nay là 2.100 tỷ đồng, trong đó tính đến hết năm 2009 DATC đã thu hồi được 1.662 tỷ đồng. Riêng trong năm 2009 thu được 507 tỷ đồng. Có thể nói tỷ lệ thu hồi nợ lên tới 79% là khá cao. Dự kiến trong năm 2010 chúng tôi sẽ thu nốt số nợ còn lại. Hiện nay chúng tôi cũng rất khó trong việc quyết định mua tiếp hay không bởi nêu tính toán không kỹ thì sẽ bị cơ quan chủ quản phê bình.
- Theo ông đâu là giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động mua bán nợ và tài sản tồn đọng DN ?
Ngoài đề xuất của Bộ Tài chính với Chính phủ về cơ chế hoạt động đối với Cty mua bán nợ và tài sản tồn đọng DN nhằm tháo gỡ những khó khăn đang tồn tại, theo tôi để phát huy hiệu quả nên cho thí điểm thành lập mô hình Cty cổ phần để tăng tính năng động và hiệu quả.
- Xin cảm ơn ông !